PHỎNG VẤN DƯƠNG NHƯ NGUYỆN,
THỰC HIỆN BỞI NGUYỄN XUÂN HOÀNG CHO TẠP CHÍ VĂN, 2005
Source of first publication: http://vanmagazine.saigonline. |
Có lẽ người đọc Việt hải ngoại không xa lạ gì với tác giả Dương Như Nguyện qua những truyện ngắn của cô trên các tạp chí văn học tại Hoa Kỳ những năm 90. Năm 1999 nhà xuất bản Văn Nghệ [California] ấn hành cuốn Mùi Hương Quế của cô, và năm nay, 2005, Dương Như Nguyện cùng lúc vừa cho phát hành cuốn Chín Chữ Của Nàng [nxb Văn Mới, California], đồng thời với cuốn Daughters of the River Huong -a Vietnamese royal concubine and her descendants, Uyen Nicole Duong (Dương Như Nguyện). Bià do Tom Suzuki trình bày, RavensYard xuấtbản, sách dày 271 pages, SRP $17.95. Địa chỉ: RavensYard Publishing, Ltd. P.O. Box 176, Oakton, VA 22123 USA, www.ravensyard.com
Dương Như Nguyện cho biết cuốn DORH là một tiểu thuyết viết ở ngôi thứ nhất theo thể “ memoir” (hồi ký). Và cô nhấn mạnh, “ vì đây là tiểu thuyết- hồi ký có nghĩa là hồi ký của nhân vật, chứ không phải hồi ký của tôi.” Cô không muốn người đọc ngộ nhận giữa tác giả và nhân vật.
Poster--Daughters of the River Huong copyright 2005
Ơ bià lưng cuốn sách, dưới dòng tít: Love & War /Tình Yêu & Chiến Tranh, người ta đọc được câu : “Truyện tình giữa André và Simone Mỵ Uyên tượng trưng cho cái chết của đặc tính lãng mạn của nền văn hoá Pháp ở thuộc địa, cộng thêm sự mở cửa của một nước Việt Nam bị tàn phá vì chiến tranh, phải đón trào lưu canh tân mang tính cách lệ thuộc của kinh tế toàn cầu. Bức tranh ấn tượng này sẽ nhắc nhở độc giả tới những chuyện có tầm vóc bao quát của Gone with the Wind và The Thorn Birds (Cuốn Theo Chiều gió và Tiếng Chim Hót trong bụi Mận Gai), đượm thêm nhân bản tính và tình yêu sâu xa giữa mẹ và con của The Joy Luck Club.”
Cô nói “Câu này không phải là quan điểm của tôi. Việc so sánh tác phẩm của tôi với Gone with the Wind, Thorn Birds, hay Joy Luck Club là ý nghĩ của nhà xuất bản, để giải thích lý do tại sao họ muốn đầu tư vào tiểu thuyết của tôi sau khi đã đọc đã bản thảo. Cô cho biết cô có thói quen là trong tiến trình sáng tạo, không bao giờ viết để cho giống hay theo một khuôn mẫu của bất kỳ tác phẩm nổi tiếng nào. Viết là viết theo sự thôi thúc sáng tạo (artistic vision) của chính mình mà thôi. Bằng chứng là trước khi RavensYard đến với cô, bà Sandra Kjistra, đại diện cho Amy Tan và Stephen King, đã hối thúc cô viết lại tác phẩm này cho giống cuốn Memoir of a Geisha của Arthur Golden, thì bà ta mới nghĩ đến việc đem tác phẩm của cô đến với các nhà xuất bản danh tiếng của Hoa Kỳ. Thế nhưng Dương Như Nguyện đã bác bỏ đề nghị đó, cũng chỉ vì không muốn đi theo một khuôn mẫu khi viết về nguồn cội của mình.
Hỏi tại sao cô chọn River Huong mà không chọn Perfume River như một cách đẩy sách đến người đọc dòng chính, Dương Như Nguyện cho biết lúc đầu nhà xuất bản RavensYard đề nghị đặt tên cho tác phẩm là“Những Cánh Hồng Đen”, dựa trên mối tình trái cấm của nhân vật chính, một thiếu nữ chỉ mới 14, 15 tuổi, nhưng cô không bằng lòng, và cuối cùng quyết định để tác phẩm mang tên của dòng sông Hương.
Cô cho rằng Perfume River là danh xưng do người ngoại quốc dịch tên của dòng Hương Giang xứ Huế.
Theo cô, “Người Huế không ai gọi dòng sông lịch sử của quê hương mình là “dòng nước Hoa” cả. “Perfume” hay “parfum” là một kỹ nghệ buôn bán, một hình thức mỹ phẩm phù du bên ngoài, làm đẹp cho phụ nữ theo kiểu quyến rũ người khác phái, hoàn toàn có tính cách vật chất hời hợt, không phải là phẩm lượng bên trong. “Nước hoa” sẽ phai đi. “Mùi hương” trái lại có thể toả từ tiền kiếp, liên đới kiếp này sang kiếp khác, không gian này qua không gian khác, đi từ quá khư, ù hiện tại, và có thể chuyên chở vào tương lai, từ vô thức, tiềm thức, tới ý thức. Với mùi hương thật sự (authentic) như trong câu: “Hữu xạ tự nhiên hương” thì “hương” có thể trở thành bất diệt trong trí tưởng và tâm thức của người thưởng ngoạn.
Chữ “hương” do đó mang ý nghĩa tâm linh nhiều hơn vật chất, phải dịch là “fragrance” trong trí tưởng, hoặc “good name” như trong “tiếng thơm muôn thuở”. “Hương” là một “motif” liên tục trong sáng tạo của tôi. Thí dụ Mùi Hương Quế. "Đó là tập truyện độc nhất tôi đem đến cho cộng đồng mình trong mười năm qua, hoàn toàn không có việc ra mắt sách, không có lời giới thiệu của ai, cũng không có bài phê bình nào, ngoại trừ bài của ông Đoàn Nhã Văn, một người tôi không hề biết, hình như cảm nhận được tâm thức của chữ “Hương” trong Mùi Hương Quế. Tôi chỉ mới đọc bài này ngày dạo gần đây.”
Dương Như Nguyện nói cô chủ trương đem bản chất văn hoá thực thụ của nguồn cội đến cho dòng chính, chứ cô không cần thiết phải bắt nhịp cầu cho dòng chính đến với nguồn cội của mình một cách dễ dànghơn. “Tôi chẳng cần phải dịch chữ ‘Hương’ như người Âu Tây đã dịch tên dòng sông quê ngoại! Nếu tôi gọi nó là ‘sông Hương’ thì độc giả của dòng chính cũng phải chịu khó viết và đọc chữ ‘Hương’ như tôi vậy thôi. Nếu tác phẩm gây được ảnh hưởng trong dòng chính, thì dòng chính sẽ biết đến tên ‘Hương’ (tiếng Việt) của dòng sông.”
Theo tác giả, đã đến lúc người nghệ sĩ sáng tạo phải viết lại hình ảnh sông Hương ngay trong lòng dân tộc, chứ đừng nói chi đến ngoài dân tộc. “Từ một lúc nào đó, sông Hương bị mang theo hình ảnh các cô gái‘ngủ đò’, nói về việc bán thân nuôi miệng của người phụ nữ. Đây là lý do khiến cô rất thận trọng trong việc chọn tên cho bản dịch. ‘Con Gái của Sông Hương’ để nói lên ý nghĩa liên hệ máu huyết, nguồn cội. Nếu sông Hương đã bị đồng hoá với việc ‘bán phấn buôn hương’ thì gọi nó là mỹ phẩm ‘parfum’ chỉ làm cho hình ảnh đó thêm độc địa mà thôi. Từ trước đến nay, người Việt mình cứ điềm nhiên mà chấp nhận những gì đã xảy ra, bình thường hoá ngay cả sự ẩu tả hoặc tiêu cực trong vấn đề ngôn từ và biểu tượng có liên quan đến dân tộc tính.” Cô giải thích.
Theo cô, "nói như vậy không có nghĩa là cô khinh bỉ những phụ nữ 'ngủ đò' theo ý nghĩa bình dân này. Tình tự dân tộc mà Nguyễn Du mang đến cho chúng ta bao thế kỷ nay là tiếng lòng của một kỹ nữ. Một kỹ nữ đã được bậc thức giả, đại nho tôn xưng là biểu tượng của chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài."
Và cô kêu gọi: Xin nam giới và phụ nữ chấm dứt vấn đề coi sông Hương là chốn “ngủ đò” theo ý nghĩa tiêu cực này. Rồi truyền tụng lẫn nhau một cách vô ý thức, trong một thời điểm mà du khách ngoại quốc đã và đang đổ xô vào Việt Nam, thời điểm mà phụ nữ Việt Nam cất tiếng kêu thương trên toàn thế giới.
Dương Như Nguyện nhắc, hãy nhớ đến cái chết của Trần Cao Vân và Thái Phiên trong ngục tối, trong những ngày dầu sôi lửa bỏng bên thềm của phong trào lật đổ thực dân (decolonization) đầu thế kỷ 20. Cậu bé trai 16 tuổi trên ngai vàng vô nghĩa, đã đi theo tiếng hò trên sông, lời kêu gọi của hai nhà nho trong ngày tàn của quân chủ và thể chế Khổng Mạnh. Vang vang trong tiếng hò lịch sử ấy là lòng thương xót cảnh khổ của người dân đen thấp cổ bé miệng, và trách nhiệm của người lãnhđạo. Đó không phải là luân lý giáo điều của Khổng Mạnh, mà là căn bản của đạo đức dân tộc. Trước bến Vân Lâu...Nghe câu Mái Đẩy chạnh lòng nước non! Đây mới đúng là chỗ đứng lịch sử của sông Hương.
As far as I am concerned, the superficial ‘Perfume’ connotation is out of my Song Huong. Out, for good! (Cô nói cô không biết phải dịch ý này ra tiếng Việt như thế nào, xin chấp nhận việc cô chêm những câu tiếng Anh để kết thúc câu trả lời).”
Cô cũng đọc lại các nhà văn Nga và Đông Âu trong giai doan này vì cô cho rằng cô mường tượng thấy hình như các tác giả này được truyền tụng trong giới trí thức thuộc “thế hệ của ông”. Cô muốn tìm hiểu về cách nhìn và nếp sống tâm linh của thế hệ này. Lý do? “Tôi muốn tạo dựng một nhân vật chính (protagonist) là một người đàn ông Việt Nam cùng thế hệ với ông, sống trong lòng nước Mỹ, cho bản thảo sắp tới, bản thảo mà tôi chưa bắt đầu.”
Dương Như Nguyện nói cô rất trọng classiques, vì classiques đã được minh chứng bởi thời gian. Tuy nhiên, khi đọc lại classiques, cô thấy rõ những gì đã lỗi thời về bút pháp bên cạnh tính chất vĩ đại trường cửu của classiques. “Tôi cố tình không chú ý đến những tác phẩm hiện đại đang bán chạy hay đang nổi tiếng, được giải này giải nọ, vân vân, để tránh khỏi bị ảnh hưởng hay chi phối bởi thị trường hay chính trị.”
Theo cô, việc đọc các tác phẩm nổi tiếng, đọc càng nhiều càng tốt. là đường lối giảng dạy viết văn của Âu tây. Đến một lúc nào đó, người sáng tác ngưng đọc hoàn toàn, và không còn bị ảnh hưởng, tìm tòi cái gì nữa hết. Chỉ đọc những gì cần cho việc sáng tác mà thôi. “Tôi đã đi vào giai đoạn này kể từ năm 1998, sau khi làm xong một hình thức ‘fellowshi’ về tương quan giữa luật học và văn chương ở Harvard.”
“Nếu một ngày nào đó, có một nhà văn rất trí thức sẽ đọc Sông Hương hoặc những tác phẩm khác của tôi, như tôi đã đọc The Sevigne Letters, thì tôi cho đó là mình đã thành công, dù là thành công trong bóng tối.”
Về câu hỏi: Cô có chịu ảnh hưởng bút pháp của tác gỉa nào không?, Dương Như Nguyện nói:
“Bút pháp Hoa Kỳ? Thưa không. Hoàn toàn không. Tôi còn chủ trương sẽ đem metaphor, simile (bút pháp ẩn dụ) của tiếng Việt vào văn chương Mỹ. Tôi đã từng bị một, hai ‘readers’ phê bình (đây là những readers tốt nghiệp khóa văn chương) cho là văn của tôi ‘unAmerican’ vì các metaphor lạ hoắc! Một vài người khác (thường thường là trong ngành báo chí) thì hết lòng bênh vực tôi, nói rằng tiếng Anh của tôi nổi bật lên một giọng nói (the voice) rất đặc biệt và authentic. Mainstream nghĩ thế nào? Khi chọn con đường đặt tác phẩm vào tay Ravensyard (vì họ yêu cầu) và không đi qua các trung gian vănchương ở Nữu Ước, tôi chẳng nghĩ đến việc sẽ có tên tác phẩm mình trên mục book review của tờ New York Times. Điều đó thật tình không quan trọng đối với tôi. Tôi càng lớn tuổi càng lý tưởng và lãng mạn: nếu Hương quả thật là Hương, thì không cần New York Times cũng tạo ra Hương; Hương tỏa trong bóng tối thì mới là hương đặc biệt. Hương đem bán thành perfume ở Gallerie LaFayette là hương mại bản.”
“Không bị ảnh hưởng,” cô thêm, “không có nghĩa là tôi không yêu thích một số tác giả nào đó.”
Cô nói, khi viết tiếng Anh, cô không thể theo nổi ngòi bút trác tuyệt của Nabokov. “Không dám có tham vọng đó. Viết chỉ để mà viết. Tôi rất ghét những người viết với tham vọng - some sort of a ‘hidden agenda’ như cái thang để leo trèo. Tôi chỉ có thể là tôi. Never any hidden agenda in what I write. The heart is the heart, pen is pen, and art is art.”
Cô nhắc câu: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi...” và nói “Hơi ấy chắc chắn phải vương vấn mùi hương quyện lên y trang như một hoài niệm tinh thần về quá khứ, một sự quyến luyến tinh thần, mãi mãi không phai nhạt vì đã nằm trong trí tưởng, chứ không thể là mùi nước hoa Chanel hay Calvin Klein ở cửa tiệm được!”
Trả lời câu hỏi Cô nghĩ sao về văn chương trong nước, văn chương ngoài nước, chuyện “nhếch nhác” bên trong và chuyện “lão hoá” bên ngoài?, Dương Như Nguyện cho biết: “Tôi không dám nói về văn chương trong nước vì không đủ dữ kiện. Tuy nhiên, những gì tôi đã đọc, ngoài vài truyện ngắn của Nguyễân Huy Thiệp, chỉ đem đến cho tôi sự thất vọng. Câu hỏi được đặt ra, trong một môi trường thiếu tự do ngôn luận, làm thế nào cho văn chương khởi sắc? Văn chương chống đối, dissident, được đánh giá theo một số tiêu chuẩn dành riêng cho văn chương chống đối. Tiêu chuẩn ấy chưa hẳn là tiêu chuẩn văn chương.”
“Nhưng trên văn đàn Mỹ Quốc, tự do ngôn luận đầy dẫy, trong những thập niên gần đây, đã có sự khởi sắc nào chưa, dù rằng Toni Morrison đã đem giải Nobel văn chương về cho nước Mỹ? Nên có một sự phục hưng (renaissance) nào đó hay không, cho dù tờ New York Times sẽ không bao giờ công nhận nhu cầu phục hưng khi họ viết về những tác phẩm được xuất bản trong guồng máy lớn?” (Cô cho biết cô nói ‘guồng máy’ là vì cô dạy luật công ty, thương mại - cái gọi là luật thương trường của tư bản. Theo con mắt nhìn của một luật gia, cô cho rằng kỹ nghệ xuất bản của nước Mỹ bây giờ là một guồng máy thương mại rất lớn có tính cách ‘độc tôn’ (monopoly) của thể chế tư bản).
"Everything still remains to be seen. Con đường đi, dưới mắt tôi, là conđường thiên lý. Đường đi chưa đến.”
Nói về ‘lão hóa’ - Dương Như Nguyện hiểu theo một nghĩa khác của từ này* - cô gọi đó là chu trình chung của tất cả mọi sự việc. Cô nói “Trong lãnh vực văn chương, chưa chắc ‘lão hóa’ là điều đáng ,tiếc. (Nếu ‘lão hóa’ có nghĩa là ‘tuyệt tự’, không có ai để thắp tiếp ngọn đuốc, thì vâng, nên có tiếng chuông kêu cứu. Nhưng nếu thật sư đã ‘tuyệt tự’ thì có kêu cứu cũng không làm gì được. Nguy hiểm là ở sự ‘tuyệt tự,’ chứ không phải ở sự thật hiển nhiên: Lão Hóa.
“Văn chương cần tuổi tác và kinh nghiệm, giống như rượu ngon, giống như mỹ nhân tự cổ như danh tướng, càng nhiều tuổi càng sắc sảo (trong tiêu chuẩn gourmet, nếu thật sự là mỹ nhân, thì phải già đi mới đẹp. Nếu không tại sao người ta lại ví mỹ nhân với danh tướng? Có tướng nào trẻ măng mà có kinh nghiệm chiến trường đủ để trở thành danh tướng hay không, kể cả Napoleon và Alexandre? Thúy Kiều 16 làm sao thu hút cho bằng Thúy Kiều 35, khi mặt hồ thu đã long lanh ngấn lệ vì đường đời, và trái tim đã trưởng thành đủ để mang tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ?”
Cô nêu một thí dụ về cái mà cô gọi là ‘sub-standardization’.
“Cách đây mấy tháng, tôi được biết rằng tôi đã được xếp loại vào chung với một số phụ nữ viết văn tiếng Việt - viết về tình dục. Tôi xin khẳng định - tôi chưa bao giờ viết về tình dục cả. Tôi chỉ viết về kinh nghiệm làm người. Người nữ nồng nàn và người nữ nhọc nhằn. Và tôi cũng không lấy gì làm hãnh diện được chỗ đứng ‘tiền phong’ cho phong trào ‘viết về tình dục’ này.
“Trong việc phê bình văn học (một địa hạt quá thiếu vắng trong tình huống eo hẹp của kiếp di dân), dùng tiêu chuẩn gì đây để đánh gía hiện tượng này - cái gọi là ‘nhà văn Việt Nam viết về tình dục, nữ cũng như nam?’ Nếu nói rằng nhà văn nữ Việt Nam đi vào một thế giới mà trước kia là chỗ đứng của đàn ông, thì Anais Nin đã làm điều này từ thập niên 1930. Tại sao đàn bà Việt Nam bây giờ đi làm chuyện đó, chỉ để công nhận mình đã thụt lùi sau Anais Nin gần cả một thế kỷ?
“Artists write art. Artists write humanity. Thinkers write thoughts. Thinkers write social justice. Artists and thinkers do not write sexuality for the sake of sexuality. Nếu tình dục là một phần của kinh nghiệm nhân sinh, thì artists sẽ tả dục tình để đi tìm cái đẹp của nhân sinh và nhà tư tưởng sẽ mô tả dục tình để tranh đấu cho nhân sinh. Dục tình viết khơi khơi, gratuitously, là khởi điểm của mại bản, dùng ngay thân xác con người để làm shock effect, mà trong đó phụ nữ thường thường là bị bóc lột. Người luật gia nói rằng đây là mại bản appealing to the prurient interest. Không thể dùng realism để bào chữa cho chiều hướng mại bản này.
“Tình dục, realism, trong phạm vi tiểu thuyết, cần phải được authenticated trở thành một kinh nghiệm nhân sinh (tôi không biết phải dịch chữ ‘authenticated’ làm sao), Chu kỳ ‘authentication’ đó phải đặt trên kiến thức, trí tuệ, và sự ngậm ngùi suy gẫm về kiếp người — knowledge, experience, and then the necessary elaboration. Đi vào lãnh vực mô tả tình dục con người bằng trí tưởng tượng, và chạm cả vào phạm vi chuyên môn của tâm lý học và y học — có thể sẽ trở thành faux pas lớn nhất cho người tập cầm viết. Write only what you know! Đây là nguyên lý rõ rệt nhất cho trường dạy văn chương sáng tạo ở xứ này. Nếu không, viết về tình dục sẽ trở thành một sự trịch thượng, kệch cỡm và gượng ép. Có nhiều khi đi luôn vào cái mà độc giả có tầm vóc sẽ cho là ‘bad taste.’”
“Người cầm bút của thế hệ mới trực tiếp chịu trách nhiệm nếu sự trịch thượng, kệch cỡm và gượng ép này xảy ra trong cái được mệnh danh là ‘văn chương, văn học’ làm cho nó không còn là ‘văn chương, văn học’ nữa. Và như thế thì chẳng thà lão hóa còn hơn.”
Dương Như Nguyện nhấn mạnh: “Xin đừng hiểu lầm là tôi muốn phê bình những ‘nhà văn nữ’ của cộng đồng. Con đường viết là con đường riêng biệt của mọi người. Văn chương là cái gì còn lại của cái gì bị quên đi, bị bỏ đi, bởi người đọc (người đọc, chứ không phải là người đi mua trong thế giới mại bản).”
“Substandardization lại càng trầm trọng hơn nữa trong môi trường di dân, nơi mà người đọc ngày càng ít đi, và tình trạng ‘tự xuất bản’ gây nên một môi trường tàn khốc cho tiêu chuẩn.”
“Cái khổ là có những người trong thế hệ mới này cứ chuyên môn đem chuyện ông Hemingway ra hỏi ông Doãn Quốc Sỹ, làm như thể ông Doãn Quốc Sỹ phải biết ông Hemingway thì mới trở thành nhà văn! Trong khi đó, nếu ông Hemingway còn sống, ông Hemingway không biết ông Doãn Quốc Sỹ là ai, vì ông Doãn Quốc Sỹ viết bằng tiếng Việt, mà sách lại không được phổ biến cho 80 triệu dân. Ngọn đuốc của thế hệ mới nên soicho những ông Hemingway của Đại Tây Dương được biết về bác Doãn Quốc Sỹ nhà mình, ngồi câu cá bên cái Hồ Thùy Dương của bác ấy (câu cá thay vì viết văn vì tác giả Hồ Thùy Dương đã lão hóa, lão hóa sau khi tấm thân gầy gò đã chịu đựng ngục tù chỉ vì nhà giáo đã từng cầm bút). Có những người khác trong thế hệ mới lại rất dễ bỏ quên hẳn bác Doãn Quốc Sỹ nhà mình, vì con đường đi vào dòng chính không cần sự lót đá (grounding) của cái Hồ Thùy Dương ngày xưa.
“Đó, mới chính thức là ngọn đuốc của người đi sau để giải quyết vấn đề lão hóa. Ngọn đuốc này phải thắp nên bởi nhiên liệu đến từ độc gỉa?. Tôi đau đớn mà nhận ra rằng vấn đề ông nêu lên không biết giải quyết ra sao. Thật tình mà nói, có thể tôi méo mó nghề nghiệp luật sư thương mại, nhưng tôi cho rằng vấn đề này mang tính chất của một vấn đề kinh tế. Cần có một Bill Gates cho văn chương hải ngoại. Tôi nghĩ đến điều này hằng đêm.
“Về phần tôi (con người nghệ sĩ tách ngoài phạm vi nghề nghiệp), sau tác phẩm này, tôi chỉ mong là một số độc gỉa hiếm hoi trong dòng chính sẽ nhớ cái tên dòng sông Hương, thay vì ‘Perfume River’ của nhà quảng cáo trung tâm du lịch. Như thế là tôi đã tạm thành công.
San Jose-Denver
Aug 15, 2005
NGUYỄN XUÂN HOÀNG
No comments:
Post a Comment