“Lịch sử trở thành kẻ hiếp dâm, mà văn hoá là nạn nhân bị hãm hiếp...”
"I bear the homeland in my heart as a perpetual sense of nostalgia...The path I travel is an unending journey. I want to travel the universal heart of humankind, while carrying my homeland in my own heart..."
Lý Đợi thực hiện 2008
Source: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12485&rb=0102
[1] “Tôi là một cá nhân rất cương quyết nhưng lại nhạy cảm, một con người sáng tạo, lãng mạn và thích mạo hiểm, nhiều cá tính, nhưng vẫn trung thành với thông lệ và truyền thống. Đồng thời, tôi cũng đã từng gạt bỏ tất cả những thông lệ mà tôi cho là cổ hủ, gò bó tự do và sáng tạo của con người. Tôi là một phụ nữ rất tham vọng nhưng lại thờ ơ trước các tiêu chuẩn xã hội và các vấn đề danh vọng, tiền tài. Tôi chỉ chủ trương cầu tiến và luôn luôn đi tìm tuyệt đối. Tôi mang nhiều bộ mặt khác nhau, trái ngược, nhưng từ trong căn bản rất chân chất và thuần khiết...Con đường tôi đi là con đường thiên lý. Tôi muốn đi vào lòng nhân loại rộng lớn, với mảnh đất trong tim, không nhất thiết phải đặc chân lên mảnh đất ấy mới tìm thấy nguồn cội và tình yêu bất tử?.” Nhà văn Dương Như Nguyện (Uyen Nicole Duong), tác giả của tiểu thuyết Daughters of The River Huong (Con gái của sông Hương) – cũng từng là một luật sư, một thẩm phán, một giáo sư – đã trả lời như thế trong bài phỏng vấn này. Trong khi cuộc phỏng vấn được đăng tải (3-2008) thì Dương Như Nguyện đã sửa soạn cho ra đời 2 tác phẩm mới của bà. [2]
Sau khi bài phỏng vấn Dương Như Nguyện do nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được link tới website talawas vào ngày 20-9-2005, thì tại Việt Nam, thông tin về một nhà văn nữ tài hoa, thông minh và sắc sảo - Dương Như Nguyện - được cập nhật nhiều hơn trong giới văn nghệ. Vì thế, trong bài phỏng vấn này, sẽ tiếp tục nhiều hơn vào tiểu sử, tâm tư tình cảm và chuyện của một luật sư, một giáo sư đại học.
Cảm ơn anh, nhưng tôi không dám nhận lời khen tặng. Việt Nam có biết bao nhiêu phụ nữ đẹp và tài năng. Đẹp đối với tôi là cái đẹp từ bên trong và cái đẹp của nhân cách. Đó mới là cái đẹp trường tồn. Vấn đề là cái đẹp và tài năng ấy được sử dụng ra sao cho tiến triển xã hội. (Thank you so much for all those compliments, but I don’t deserve them. Vietnam is full of beautiful and talented women. When I say beauty, I mean inner beauty and beauty of character. That’s the only kind of beauty that lasts. It’s just a question of what can be done with all that talent and beauty for the good of society.)
Thưa chị, chị có vui lòng thổ lộ cùng bạn đọc về cái kỷ niệm năm 13 tuổi của mình không? Trước đó nữa, khi còn rất bé, chị có còn nhớ gì nhiều không?
Tại sao anh lại hỏi về năm tôi 13 tuổi? Anh có biết gì về tôi, mà chính tôi cũng không biết? Có thể lắm. Theo tôi nhớ thì năm 13 tuổi, tôi là một cô bé dậy thì, rất gầy, sống ở Sài Gòn. Tôi học rất giỏi và cuối năm học tôi bị ốm phải nghỉ học một thời gian. Nhưng vẫn đứng đầu lớp. Đừng hỏi tại sao. Chính lúc đó tôi cũng không hiểu tại sao nữa. Tôi giỏi Việt văn và Anh ngữ, căn cứ vào điểm trong lớp. Trước đó thì cha mẹ tôi di chuyển từ Huế vào Sài Gòn, và tôi đổi trường học luôn luôn. (Why mentioning the age of 13? Do you know something about me that I don’t? Maybe. To the best of my recollection, I was a very skinny teenager, living in Saigon. I was an excellent student, but toward the end of the school year, I was sick and had to miss school for a while. Yet I still topped my class; don’t ask me why. I myself did not know. Be that as it may, I excelled in Vietnamese literature and English, judging from my grades. Before that, my parents moved us from Hue to Saigon, and I changed school too often.)
Nhiều cô gái ở Huế, Quảng Nam, lấy chồng vào tuổi 15, 16 [thời trước]. Chị ra đi có bị vướng bận gì chuyện “con tim” hay không?
Anh nói đúng. Nhiều thiếu nữ thời tôi, lớn lên ở Việt Nam, lấy chồng rất sớm. Năm tôi ra đi, tôi khoảng 16 tuổi. Mơ mộng và thích thơ văn. Tuy nhiên tôi khác biệt với những bạn bè cùng lứa. Ngay thuở đó, tôi đã tham vọng và không nghĩ đến chuyện con tim. Thế mà khoảng 2 tháng trước khi Sài Gòn mất, tôi gặp một chàng trai rất dịu dàng ở một… hộp đêm. Chỉ thế rồi thôi. (Mẹ tôi cho tôi đi học nhảy ballroom dancing để sau này đi về ngành ngoại giao, biết cách giao tế Tây phương.)Năm lên tám, gia đình tôi từ giã Huế vào Sài Gòn. Lúc đó tự nhiên tôi có nghĩ đến hình ảnh một cậu con trai Việt Nam rất dịu dàng, hiền lành, mà bất hạnh. Cậu trai cũng gấy ốm như tôi. Chỉ có vậy thôi. (You are correct. Vietnamese women in my generation got married quite early. When I left the country, I was 16 going on 17. I was very romantic and loved literature. Nonetheless, I was very different from my peers. Even then, I was ambitious and did not think of “romantic love.” Yet, about two months before Saigon fell, I met a very gentle young man at a… dance club! But that was it. (My mother had me learn ballroom dancing in preparation for a diplomatic career – I was supposed to be trained on the social protocols of the West.) When I turned eight, we moved from Hue to Saigon, and I thought of the image of a Vietnamese boy, who was very kind and gentle, yet somewhat unlucky. He was skinny like me. That was it.)
Đến Mỹ, cảm giác ngay khi đặt chân xuống là gì? Điều gì vào ngày ấy còn để lại ấn tượng trong chị?
Nên nhớ tôi là một người tỵ nạn. Tôi nhớ mình buồn da diết. Cha tôi khóc, và mẹ tôi xỉu. (Tôi đem những kinh nghiệm này vào tiểu thuyết.) Tuy thế, nhưng sau khi đến Mỹ, tôi thấy bừng sinh khí. Tôi bảo với mình rằng trong nỗi đau khổ mất mát và tương lai vô định này, tôi đã bước vào đất hứa. Để được tự do. Tự do về vấn đề chính trị, và tự do bản thân. Ngoài việc thoát khỏi chế độ mới, thể chế Cộng sản mà tôi không quen, tôi sẽ không còn phải sống theo khuôn khổ chật hẹp của xã hội Việt Nam, ảnh hưởng văn hoá Khổng Mạnh Tống Nho, ảnh hưởng Trung Quốc, qua sự chà đạp phụ nữ. (Keep in mind I was a political refugee. I remember the sadness. My father cried, and my mother fainted. (I brought this personal experience into my novels.) Even so, when I landed in America, I felt rejuvenated. I told myself that in all this loss and in face of uncertainty, I had landed on my promised land. I would have freedom. Political freedom as well as personal freedom. I no longer had to live within the confines of neo-Confucianism imported from China -- a cultural jail that oppressed women.)
Chị đã phải bắt đầu việc học lại của mình như thế nào? Những khó khăn tất yếu phải đối mặt?
Tôi học giỏi ngay từ nhỏ. Không có vấn đề gì. Không có trở ngại ngôn ngữ. Ở Mỹ, tôi tự nuôi mình đi học bằng cách làm việc và có học bỗng vì điểm cao. (Tôi đem kinh nhgiệm sống này vào tiểu thuyết của tôi.) Vấn đề khó khăn nhất là tôi không có ai nêu gương và hướng dẫn vấn đề nghề nghiệp sau này. Tôi cảm thấy lẻ loi. (I have always excelled academically. No problem in college. No linguistic difficulty. I supported myself with work study and scholarships based on academic excellence. (I brought this experience into my novels as well.) The only problem was the lack of mentorship and career counseling. In that regard, I have always felt alone.)
Đến khi nào thì chị biết Anh ngữ và hoà nhập văn hoá không còn là vấn đề của mình? Hay hỏi khác đi, khi nào thì chị thấy mình hoà đồng được với những sinh viên, học sinh bản xứ khác?
Tôi hoà đồng ngay lập tức. Chắc quý vị không ngờ là những vấn đề văn hoá hội nhập thường đến khi chúng ta già đi mà thôi. Nhưng cá nhân như tôi càng sống lâu năm ở ngoại quốc thì càng thấy rõ vấn đề xung đột hoặc lẻ loi văn hoá mà mình không nhận ra trong lúc trẻ. (Cultural integration began immediately for me. You might be surprised to find out that cultural issues often come much later in life for immigrants, as they get older and have spent much more time away from their home culture.)
Còn việc học tập và ôn luyện tiếng Việt của chị như thế nào?
Việc tự nhiên. Tôi vẫn luôn có khiếu về ngôn ngữ, kể cả tiếng mẹ đẻ. Bố mẹ tôi là giáo sư ngôn ngữ và văn chương. Dĩ nhiên là tôi có mất đi một số ngữ vựng. Tôi nói và viết tiếng Việt theo lối trước 1975 của miền Nam, và vẫn còn cảm thấy bỡ ngỡ trước ngôn ngữ của xã hội Việt Nam bây giờ. (Natural. I have always had an aptitude and a love for languages, including my native tongue. After all my parents taught Vietnamese linguistics and literature. Of course, I lost some of the vocabularies. The Vietnamese I speak and write is pre-1975 South Vietnamese style. I feel bewildered (and somewhat shocked) by certain contemporary Vietnamese usage.)
Luật sư là một trong những ngành "hái ra tiền" tại Mỹ, chị chọn nó vì lý do này, hay là vì một lý do nào khác?
Tôi chọn ngành Luật vì đó là một thử thách cao nhất cho người di dân lúc tôi thuộc lứa tuổi đôi mươi. (I chose to study law because of the challenge it offered a 20-year-old immigrant.)
Với chuyên ngành luật, chị nghĩ người Việt Nam [tại Mỹ] có tỏ ra ưu trội trong lĩnh vực này không? Tại sao?
Thế hệ luật sư đầu tiên không ưu trội, dù rằng có nhiều người kiếm được rất nhiều tiền vì họ độc quyền phục vụ cộng đồng [Việt] khi luật sư còn quá ít. Có nhiều vấn đề, nhất là nói và viết trước toà án. Tôi không gặp những vấn đề đó. Sự dễ dàng là do tuổi trẻ và năng khiếu. Những thế hệ sau ưu trội hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa thấy sự ưu trội mà tôi muốn thấy. Tôi đi tìm sự cầu tiến tuyệt đối ở mình và ở người. (The first generation of Vietnamese lawyers in America, in my opinion, did not excel professionally, although many made a lot of money serving a captive audience – the community of first-generation Vietnamese. Many had writing and speaking issues especially in court. I have never encountered such difficulty, most likely due to my youth and perhaps aptitude. Younger generations of lawyers have excelled professionally, but not to the level I would like to see. I am a perfectionist and I demand more of myself and others.)
Chị viết văn trước khi hành nghề luật, hay ngược lại? Chị nghĩ, hai lĩnh vực này có điểm gì tương đồng hay không?
Ở bên Mỹ tôi viết văn trước khi trở thành luật sư. (Trước khi học luật, tôi là một ký giả, tốt nghiệp báo chí, và viết văn từ lúc đó.) Mặc dù chu trình sáng tác của luật học và văn chương không tương đồng, nhưng tôi đã làm cho chúng PHẢI tương đồng để sống theo kiểu tôi đã sống. Tôi có viết về luật học và văn chương sáng tạo trong tạp chí khảo cứu “xuyên bộ môn” (interdisciplinary) của Đại học Nam California. (I wrote before I became a lawyer. I was a journalism major and began writing that way. The two fields -- law and art -- are incompatible, but I made them compatible so that I could lead the life I’ve led. I wrote about this incompatibility and the compromise in a scholarly article on law and art, published by the Southern California Interdisciplinary Law Journal.)
Khi vào cương vị giáo sư đại học ở Denver city, lúc ấy chị bao nhiêu tuổi? Độ tuổi trung bình của sinh viên theo học ngành này? Tôi hành nghề luật sư 18 năm trước khi đi dạy. Năm đi dạy đầu tiên tôi đã 42 tuổi. Tuổi trẻ nhất cho sinh viên luật năm thứ nhất là 22, tuy nhiên, tuổi của sinh viên có thể từ 22 đến 60. (I practiced law for 18 years before I became a law professor. I was 42 at that time. The typical age of a first-year law student in America is 22, but the age group can range from 22 to 60.)
Mỗi năm chị có bao nhiêu học kỳ? Mỗi học kỳ chị có bao nhiêu sinh viên? Có nhiều sinh viên người Việt [hoặc gốc Việt] học lớp của chị không? Mỗi năm có hai cá nguyệt, tức là hai học kỳ. Mỗi học kỳ tôi dạy từ 50 đến 70 sinh viên. Những lớp có viết luận đề thì tôi chỉ dạy dưới 8 sinh viên. Rất ít sinh viên người Việt. Từ trước đến giờ chỉ có hai em, một trai, một gái.(A school year consists of two semesters. Each semester I might teach about 50 to 70 students. In seminars that require paper writing, I typically have as few as 8 students. In my teaching career at Denver, I have had only two Vietnamese students, a man and a woman.)
Nếu được, chị đánh giá họ như thế nào? Có một nhược điểm chung nào mà chị thường nhìn thấy ở họ? Tôi rất ngại nói về học trò của mình trước công chúng. Làm như thế tôi thấy không phải. Tôi rất hạnh phúc khi được quen biết gia đình của học trò Việt. Đó là vì sợi dây văn hoá và tình nghĩa giữa tôi và họ. (I don’t want to comment on my students publicly, because it is not fair to do so. I must say that getting to know the family of one of my Vietnamese students has been the special joy of my life. I attribute this to our cultural bond.)
Chị vào làm Ban quản lý điều hành Sở Học chánh Houston năm nào? Công việc cụ thể của nó là gì?
1979. Chính thức trở thành tổng giám đốc năm 1980, ở tuổi đôi mươi. Tôi trông coi tất cả các thiệt hại, bồi thường, bảo hiểm, liên lạc với luật sư biện hộ cho Quận Học Chánh (đứng hàng thứ 6 toàn quốc Hoa Kỳ), và chịu trách nhiệm một ngân quỹ 6 triệu đôla. (1979. Officially becoming Executive Director in 1980. I was in my early 20s. I oversaw all compensation, liability, and insurance programs, and liaisoned with the School District’s counsel. The Houston Independent School District is the sixth largest school district in the U.S. I was responsible for a $ 6 million budget.)
Còn khi làm Thẩm phán tại Houston (người Việt điều tiên làm thẩm phán tại Mỹ), chị có phải đối mặt với một vụ án nào gay go, thú vị không?
Tôi là thẩm phán thành phố (chỉ một nhiệm kỳ 3 năm) và là viên chức “án sát” phải duyệt lại các trát toà đi bắt người hoặc đi khám gia cư. Tất cả các trát toà này đều có liên đới đến Hiến pháp Mỹ, và vì thế có thể phức tạp và khó khăn. Tuy nhiên, viên chức “án sát” thường thường làm việc trong bóng tối, không được khen thưởng. Chỉ có khi nào làm sai thì mới “bị” đem ra ánh sáng mà thôi, và lỗi lầm lại có thể bị kháng cáo lên đến cả tối cao pháp viện lie^n bang Mỹ, vì tra'c toa` ba('t nguo`i là vấn đề hiến pháp. (For only one term, a 3-year term, I was a municipal judge and magistrate. As magistrate, I had to approve and sign search and arrest warrants. All warrants were interesting and difficult constitutional matters. Yet, the magistrate often worked behind the scene without much recognition. But if the magistrate made a mistake, it would be exposed to the public light, and probably the error would go to the U.S. Supreme Court because of constitutional implication.)
Hỏi liên tục một số câu đời tư như thế, để đi đến câu hỏi chính: Nhìn lại những bước chuyển trong đời mình, chị thấy bản thân mình là người như thế nào?
Tôi là một cá nhân rất cương quyết nhưng lại nhạy cảm, một con người sáng tạo, lãng mạn và thích mạo hiểm, nhiều cá tính, nhưng vẫn trung thành với thông lệ và truyền thống. Đồng thời, tôi cũng đã từng gạt bỏ tất cả những thông lệ mà tôi cho là cổ hủ, gò bó tự do và sáng tạo của con người. Tôi là một phụ nữ rất tham vọng nhưng lại thờ ơ trước các tiêu chuẩn xã hội và các vấn đề danh vọng, tiền tài. Tôi chỉ chủ trương cầu tiến và luôn luôn đi tìm tuyệt đối. Tôi mang nhiều bộ mặt khác nhau, trái ngược, nhưng từ trong căn bản rất chân chất và thuần khiết, hoa`n toa`n trung tha`nh vo'i nhu~ng gia' tri. da.o du'c cu?a mi`nh. (How do I view myself? I am a very determined yet sensitive individual, a romantic creative risk-taker, quite eccentric yet still faithful to conventions and traditions in so many ways. At the same time, I have been known to bypass conventions and to break traditions when I find them to be stale and restrictive of human freedom and creativity. I am a very ambitious woman yet detached from societal judgment – things such as fame and fortune have not motivated me. I am full of contradictions and multi-faceted, yet the core of me is very consistent and pure. In many ways, I am a purist, some may even say a moralist.)
Vấn đề thực sự đang truy vấn tâm linh của chị là gì? Có thể nói về nó hay không? Con đường tâm linh của tôi quá riêng tư để đem bàn luận trong cuộc nói chuyện. Tôi luôn nghĩ đến những vấn đề anh đã nêu trên đây: nguồn cội, bản sắc, sự phát triển và trau dồi khả năng, tài năng, rồi tiềm năng, cũng như hạnh phúc cá nhân. Vì tôi nghĩ nếu không có hạnh phúc cho chính mình thì không thể phục vụ được cho tha nhân. Tôi không đi theo chủ trương sống khổ nhục tự đày đoạ chính mình. Nhưng tôi cũng không phải là người chỉ muốn hưởng thụ. Điều tiên quyết: tôi tin tưởng vào công bằng và công lý. Luật nhân quả. (My spiritual quest is too personal to be expressed in an interview. I think frequently about all the things you mentioned: roots, identity, full development of talents and potential, personal happiness. A person must be happy internally in order to serve others. I do not subscribe to a masochistic philosophy of life. Nor am I epicurean. One thing for sure: I believe in equality and justice – cause and effect. One must take the consequence of one’s action.)
Với chị làm một người Mỹ gốc Việt thành đạt như bây giờ, và làm một người Việt thành đạt, nếu được chọn lựa, chỉ sẽ chọn bên nào?
Rất may mắn tôi không bao giờ phải đẩy mình vào hoàn cảnh chọn lựa khó khăn như vậy. Sống cho nên người thôi cũng đã nam giải rồi, nói gì đến người Mỹ gốc Việt, người Việt gốc Việt. Bị phân loại như vậy mà lại phải là người thành đạt theo tiêu chuẩn xã hội nữa thì rất nan giải! (I am glad I never have to make those difficult choices. To be worthy as a human being is difficult enough, let alone being a Vietnamese American, a Vietnamese Vietnamese (any such identity?), or then a successful one in society’s standards, as opposed to a failing one!)
Trước khi vào phần văn chương, xin hỏi chị một câu tế nhị mà bản thân độc giả tại Việt Nam có vẻ quan tâm. Thu nhập và chi tiêu của chị như thế nào?
Thu nhập cá nhân ở bên Mỹ là chuyện rất riêng tư không nói trước công chúng. Tôi có thể nói lên điều sau đây và các đồng nghiệp của tôi sẽ công nhận: Tác giả văn chương (không phải tác giả thương mại) không kiếm ra đồng nào. Mỗi cuốn tiểu thuyết bán trên amazon.com, tôi chỉ có được 1 đôla. Giáo sư luật và nữ luật sư người thiểu số không làm nhiều tiền bằng các đồng nghiệp tương đương, và đây là dữ kiện đáng buồn của nước Mỹ. Tôi tiêu bao nhiêu à? Tôi luôn luôn tiêu quá nhiều vì chẳng bao giờ tôi lo nghĩ đến tiền bạc. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ ca?m tha^'y to^i da~ tiêu đủ cho người và cho các công tác xã hội. Cái khó vẫn bó cái khôn. Trong quá khứ, tôi đã có thể chạy theo tiền bạc và trở thành vô cùng giàu có, đến bạc triệu, bạc tỷ đôla, nhưng tôi đã không làm điều đó. Có thể đó là ngu dại. Trong tương lai nếu tôi có đi kiếm tiền để cố ý làm giàu, đó chẳng qua chỉ là thử thách trí thông minh mà thôi, hoặc để có tiền làm việc thiện. Tựu trung lại, tôi chỉ làm những cái gì tôi thích. Một trong những công việc mà tôi đang cưu mang hiện nay trong hoạt động bất vụ lợi là tìm cách giải quyết bằng pháp luật vấn đề buôn người ở Đông Nam Á. Tôi mong có thể công bố kết quả của công trình nghiên cứu này trong năm sắp đến. (My income? In America, it’s a personal matter and should not be discussed in public. I can reveal this much: Literary writers (not commercial writers) hardly make any money. I make about a dollar for every copy of my literary novel sold on amazon.com. Law professors and minority female lawyers like me are underpaid. This is still a sad reality in America, and the profession knows this. How much do I spend? I always spend too much because I never worry about money. Yet I always wish I could spend more for the good cause and the good of others. The means still restricts the end. In the past, I could have become very financially wealthy – millionaire, billionaire, but I chose not to. Some say this is stupid. I think it is stupid in a way, looking back. What makes me rich has never been my income. If I ever go after money, it is only for the intellectual challenge of making it, or for the need of helping others. In the end, I will only do what I want to do. One of the very important topics that I am pursuing right now as part of my pro bono commitment is a proposal for legal solutions in dealing with the human trafficking problems in SouthEast Asia. I hope to publish my work in this area within a year.)
Nói như quan điểm của bà Sandra Kjistra khi nhận định Daughters of The River Huongthì Dương Như Nguyện hoàn toàn có khả năng viết như Mỹ hay các nhà văn best-seller còn lại. Đúng là chị muốn đi độc lập, và không theo khuôn mẫu. Nhưng về kỹ thuật viết, những ý tưởng cần thể hiện, những tư tưởng muốn gởi gắm… chị cũng có thể nói đôi chút về nó?
Tôi không thể phát biểu cho bà Sandra, dù rằng tôi vẫn còn giữ mấy dòng chữ nhận định của bà ấy về bản thảo của tôi. Bà ta không phân biệt giữa tôi hay bất cứ người viết nào đã tìm đến bà ta. Rõ ràng là bà ta muốn tôi chạy theo nhu cầu thương mại của thị trường Mỹ, và khuyên tôi nên viết một cuốn theo kỹ thuật của Memoir of a Geisha (Hồi ức một Geisha). Về kỹ thuật viết thì bà ta chẳng bao giờ nhân nhượng cho tôi vì tôi là người Việt Nam. Trong việc làm của tôi, tôi luôn luôn phải làm theo tiêu chuẩn chung của người bản xứ. Đúng ra, tôi đã bị đặt vào một số tiêu chuẩn cao hơn người bản xứ, chỉ vì tôi là một phụ nữ Á Đông cần phải thi thố, vì họ bắt mình phải thi thố và chiến đấu. Tôi tin giá trị đích thực văn chương là giá trị quốc tế, không phân biệt văn hoá. Tôi không thấy là tôi viết theo lối các nhà văn Việt Nam viết cho cộng đồng mình. Tôi không cho rằng mình viết theo lề lối của cộng đồng người Việt thế hệ thứ nhất. Tôi có đọc và thưởng thức văn chương Việt Nam trước 1975. (I can’t speak for Sandra although I still have her handwritten note somewhere, commenting on my novel. I know that she did not distinguish me from any other writer who has come to her. It is clear from her note that she wanted me to change my novel into a format that resembles Memoir of a Geisha – something that met the needs of the American marketplace. In my career (law and art both), I have always been held to the same standard as the natives. In fact, I have been held to a higher standard, simply because that’s what it takes for me to distinguish myself and gain the respect of the mainstream. The art and craft of writing are based on a number of universal principles and standards. I believe in them and think good writing must transcend cultures. I really don’t subscribe to the writing style of Vietnamese writers writing in exile for their own community and ethnic audience, whatever that style is. I do enjoy Vietnamese literature that predated 1975.)
Tại sao chị chọn lựa làm một nhà văn [có vẻ] khép kín trong vòng khung của mỹ học và thẩm mỹ truyền thống Việt?
Câu hỏi có ngụ ý như thế nào? Tôi không phải là một nhà văn “khép kín”. “Thẩm mỹ” không biên giới. Và “truyền thống Việt” nếu đúng nghĩa là truyền thống sẽ sống còn và tồn tại. (Tôi hy vọng truyền thống tốt đẹp Việt Nam sẽ bất tử?). Văn hoá dân tộc tồn tại là cái gì mở rộng, không phải là một sự khép kín. (What does that mean, “a writer restricted by the Vietnamese aesthetic traditions?”Aesthetics is never restricted. And Vietnamese traditions will live on; otherwise they won’t survive as traditions; they will just disappear! I hope that will not happen. What survives and exists across cultural borders is always an expansion, never a restriction.)
Chị nghĩ tính chất, hương chất Việt sẽ biến mất trong một nhà văn gốc Việt khi nào? Chị nghĩ, nếu con chị viết văn, tính chất Việt có xuất hiện trong tác phẩm của nó không?
Cái Việt tí'nh trong văn chương của tôi được nhà xuất bản và người đọc trong dòng chính gọi là “the voice.” (Tiếng nói, hoặc qua nhân vật, hoặc qua lối tâm tình của chính tác giả. Trong dạng tiểu thuyết, thì tiếng nói phải qua nhân vật). Tất cả các độc giả của tôi có nhã ý đến tìm tôi đều nhận ra tiếng nói ấy. Hương chất Việt sẽ biến mất khi nhà văn không còn “the voice” riêng biệt của mình, không giống một ai khác trong dòng chính. Nếu con tôi viết văn và tôi un đúc cho nó thì Việt tính của nó sẽ không mất. Tiếng nói của nó sẽ là đặc thù riêng của nó, không giống ai khác. (Perhaps what you refer to as “the Vietnameseness” in my fiction is what my publisher and readers in the mainstream describe as “the voice.” In the creative literature, the voice is very important. A writer of fiction must be recognized for “the voice” either through characters or from herself as the unseen narrator. I subscribe to the notion that in fiction, the voice must come from characters. Every reader who has sought me out after reading my work has recognized “the voice” in my work. I want that voice to remain unique. If it’s my Vietnamese-ness that characterizes “the voice,” then be it – that which distinguishes me as a writer in the mainstream. If my child chooses to write and if I contribute to my child’s writing career, then the Vietnamese characteristics will not be lost. However, my child’s voice will be uniquely his or hers, not like anyone else’s voice.)
Tại sao "Hương" lại được chị chọn làm motif để liên văn bản, nghĩa là viết miệt mài từ tác phẩm này sang tác phẩm khác?
Hương trở thành một thôi thúc. Một tiếng gọi tâm linh để đi đến một nơi chốn cao quý về tinh thần. Giống như miền đất hứa. Quê hương. Nguồn cội. Cái đẹp trường cửu. Vì thế, motif này bắt buộc phải là một sự nối dài. Từ Mùi hương quế đến Sông Hương là chuyện đương nhiên. Có một số độc giả Việt Nam cho rằng sông Hương là con sông địa lý, ở xứ Huế. Có vị còn hỏi tôi về dòng sông ở Huế vì bà ta cho đó là con sông của bà ta, chỉ vì bà ta sinh trưởng ở Huế! Sông Hương ở Huế đối với tôi chỉ là biểu tượng của biểu tượng. Tôi viết về con sống ở quá khứ. Của tuổi thơ. Con sông của linh hồn. Thêm một điểm, ngẫu nhiên, mà tôi có viết về một người tôi cho rằng đã khai phóng nữ quyền ở Việt Nam, đi trước thời đại. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Cũng tên Hương. (Fragance is the motif of “the voice.”I also think of fragrance as the calling, the pursuit of internal and eternal nobility. What the mainsream describes as a sense of “noblesse oblige’”. Fragrance is also my sense of the beauty of culture. A promised land, never reached. It’s the guiding light for the return to roots. Such a motif naturally has to be continuing from one body of work to another. For the Vietnamese audience, I started with The Cinnamon Fragrance of the East and then moved on to the River Huong. I was surprised when certain Vietnamese readers kept thinking of the physical river in Hue, whom they claimed as “theirs.” These Vietnamese readers think narrowly of the geographical, physical location. One woman even quizzed me on the River in Hue. To me, the River in Hue is just the motif of a motif. I wrote about the River of Memory. The River of Childhood. The River of the Soul. Another coincidence: I also wrote about a Vietnamese feminist (for lack of a better word): the poetess Ho Xuan Huong. She was ahead of her time. Her name is also Huong.)
Chị nghĩ mình thuộc kiểu nhà văn nào?
Kiểu riêng của tôi mà thôi. Thành thật mà nói, tôi không đặt vấn đề chọn kiểu. (I am my own stylist. Frankly I don’t make it an issue – what style.)
Lớp nhà văn trong nước và hải ngoại, chị có quan tâm đến ai không? Vấn đề tiền phong [avant-garde] trong văn học đang diễn ra trong một số ít tác giả người Việt, chị nghĩ thế nào về điều này?
Tôi không biết đủ về họ để nhận xét. Nói phải nói một cách tổng quát, tôi thấy Nguyễn Huy Thiệp có tài viết truyện ngắn thuần tuý dân tộc, rất hay, và bà Phạm Thị Hoài là một phụ nữ trí thức rất gan góc, viết tiểu thuyết theo kiểu nghị luận. Một trong những chuyên môn của tôi là phê bình văn học, nhưng tôi không đủ thì giờ viết ve^` di.a ha.t na`y (trừ năm tôi theo học Thạc sĩ ở Đại học Harvard; năm đó tôi viết rất nhiều bài phê bình văn học vì chuyên môn của tôi là phê bình văn học, sự tương quan giữa luật học và văn chương. Một trong những bài phê bình của tôi năm ấy nói về kịch bản Kiss of A Spider Woman của một nhà văn Nam Mỹ, sau này được làm thành film rất nổi tiếng ở Mỹ). Ở Việt Nam sau này tôi thấy có Đỗ Hoàng Diệu với lối văn rất sống động, và cách sử dụng biểu tượng khá sâu sắc. Tuy nhiên, Diệu viết không đều đặn, có truyện được, có truyện cô cố gắng với biểu tượng nhiều quá. Và vấn đề tâm linh phụ nữ thì Diệu không đi đến cuối con đường. Người tôi thấy có tiềm năng quốc tế là Nguyễn Ngọc Tư. Điểm tương đồng là cả ba: Diệu, Tư, tôi, đều có viết về việc hãm hiếp một phụ nữ trẻ tuổi (tôi co`n viết cả về việc hãm hiếp một thiếu niên) (hai cuốn tiểu thuyết đó tôi chưa xuất bản). Hãm hiếp trở thành biểu tượng của kiếp nô lệ. Những gì xảy đến cho con người khi bị mất quyền tự chủ. Lịch sử trở thành kẻ hiếp dâm, mà văn hoá là nạn nhân bị hãm hiếp. Tôi xin nói rõ, tôi không đọc nhiều ve^` tie^?u thuye^'t Vie^.t Nam hie^.n da.i. Chỉ đọc những gì đã gây sôi nổi cho cộng đồng người Việt, do bạn bè của tôi gửi đến. (I don’t know enough about the new breed of Vietnamese writers to make any observation. If I have to say something, well… In general, I think that Nguyen Huy Thiep is talented in the domain of Vietnamese short stories, but his is confined to the Vietnamese culture. Pham Thi Hoai is a learned woman; her concepts are intelligent and reflect outspoken courage, but she is not a lyrical creative artist. More of a logical creative thinker or essayist, in my opinion. Literary critique and interpretation are part of my graduate training and expertise, but I don’t “practice” literary critique because of lack of time. The last literary critique I wrote was on the famous Latin American play, Kiss of a Spider Woman. It was made into a famous movie in America in the 1980s. More recently, I noted the unique style of Do Hoang Dieu and her use of symbolism. But, in my opinion, the quality of her work is inconsistent. She can be so good in one short story and then she tries too hard in another short story. Her writings about the wrinkles of the female psyche do not satisfy me. I am quite impressed with the more universal and consistent talent of Nguyen Ngoc Tu. The thing I have in common with Dieu and Tu is the fact that I, too, wrote about the rape of a young girl (and even a young man) (I have not released those novels, not yet. [This interview took place in 2008; those two novels were published in 2011.]) Rape becomes symbolic of the oppressed – what happens when a human is stripped of control. The course of history can become the rapist, and the culture is the victim. I need to put in a caveat that I have not read a whole lot of Vietnamese works. I read what has invoked controversies because my friends sent the controversial works to me to read.)
Chị có mong mỏi mở rộng thêm hiểu biết về các tác giả người Việt không?
Khổ một nỗi tôi không có nhu cầu hay xa xi phẩm của thời gian để đi tìm họ. Tôi làm việc trí não mỗi ngày từ 10 tới 13 tiếng là thường, về những vấn đề không liên quan gì đến Việt Nam. Tôi chỉ có thể đọc những gì người khác đưa cho tôi để tham khảo ý kiến hay để làm quen. Tuy nhiên, tôi mong mỏi một ngày nào đó sẽ có một tài năng Việt Nam gây ảnh hưởng thế giới. (Unfortunately, for lack of time I don’t make a point to keep up with Vietnamese writers. I work cerebrally between 10 and 13 hours a day, quite often on matters that have nothing to do with Viet Nam. So I only read what I like, or what was given to me by others asking for an opinion, or to get acquainted. Yet, I do look forward to the arrival of a globally influential Vietnamese literary star!)
Với chị, như thế nào là một tác phẩm thành công? Thế nào là một nhà văn thành công?
Từ trước đến nay tôi chưa viết để được thành công hay bị chi phối bởi chữ thành công. Tất cả các nhà văn đều mong muốn được xuất bản, được đọc và được tiếp tục viết. Đối với tôi sáng tạo là con đường thiên lý. Một tiểu thuyết gia thành công làm cho độc giả xúc động thật sự, và tin tưởng tiểu thuyết là sự thật, cũng giống như một kịch sĩ khi sân khấu đã trở thành cuộc đời. Người viết thành công là người đã làm độc giả thay đổi, và suy nghĩ, mà không cần phải cổ võ, tuyên truyền hay bóp méo, xách động để ảnh hưởng người khác. Nói một cách văn hoá: đi tìm nghệ thuật tức là đi tìm sự thật của chính mình. Không thể có nghệ thuật trong sự giả tạo hay lừa dối. (I have not defined nor tried to achieve success whenever I write. All writers want to be published and widely read. All writers want to continue writing. But the creative process is an unending journey. I think a successful novelist moves her readers and creates a sense of suspended disbelief, like any successful artist who must create an impact on her audience because to her, the stage has become life. A successful writer is one that has caused a change in her readers, making readers think more deeply about that which has moved them, without the need for propaganda or intimidation, or distorting the truth as a form of manipulating or forcing behavioral changes in others. A cliché: the pursuit of art is the pursuit of truth. There can never be art in pretense or deceit.)
Chị nghĩ văn học của người Việt hay gốc Việt ở hải ngoại đã có được những tác giả thành công như thế chưa? Nếu có, họ gồm những ai?
Tôi chỉ xin nói về cộng đồng di dân. Dù tôi không chủ tâm hay có thì giờ theo dõi đọc văn của nhà văn Việt Nam, nhưng tôi biết thị trường và không khí. Theo thiển ý của tôi thì chưa có sự tuyệt với trong sáng tạo đúng mức như tôi muốn thấy, kể cả cá nhân tôi. Chưa có một khám phá đúng mức về tài năng. Chưa có tác phẩm để đời. Mà lại có một sự thoái hoá về chất lượng. Đó là vì vấn đề thương mại, hiện tượng tự xuất bản, môi trường khép kín, xô bồ và sự thiếu phương tiện của cộng đồng di dân. Không có đủ nhà phê bình trí thức và nghiêm túc, mặc dù có một số người tự phong mình là nhà phê bình. Giới đó hay viết bài "phê bình" dưới tiêu chuẩn "substandard", vì ganh ghét cá nhân hay vì muốn nổi tiếng. Họ đi vào ranh giới lạm dụng tự do ngôn luận bừa bãi và phạm luật, những người khác làm ngơ vì sự hạn hẹp và bưng bít của cộng đồng thiểu số. Ngay cả dòng chính cũng phải lên tiếng báo động về vấn đề phê bình văn học hiện đại. Sự thoái hoá này xảy ra ngay cả trong xã hội dòng chính. Điều mà tôi e ngại khi đọc văn chương Việt Nam là ở điểm này: Các cây bút Việt cố gắng nhiều quá, họ đâm ra gượng ép. Nếu tôi đã đọc được gì về nghệ thuật viết văn từ dòng chính, đó là điểm sau đây: Viết văn là một chu trình tiềm thức… Trơn tru, dễ dàng, và không cần phải cố gắng quá độ thì những gì đẹp nhất của việc sáng tác mới thoát ra được. (I confine my answer to the exile community. Although I have not followed the career of any particular Vietnamese writer, I know the general marketplace and ambiance. In my opinion there has not been a masterpiece. There has not been proper recognition or nurturing of talents. In the past few decades, there has been an erosion of quality and standards due to consumerism, the self-publishing phenomenon, and the close-knit and non-selective nature of the exile community. There is a serious lack of qualified and competent literary critics, although there are self-claimed critics who write substandard “reviews” for personal vendetta and senstionalism. Those people walk the borderline of committing unprotected speech and tortious conduct. Even the mainstream is complaining about the true meaning of today’s literary interpretation. There is an erosion of literary standards even in the mainstream. The problem that I see in reading Vietnamese literary works is that many Vietnamese writers try too hard. They “will” their writing. What I have learned from creative writing is this: Creative writing or fiction is a natural process. The work streams out of you effortlessly. It’s almost subconscious. One cannot will one’s creative writing. Astute readers see and feel this right away.)
Với suy nghĩ như vậy, chị nghĩ gì về văn chương Việt trong 5, 10, hoặc 20 năm tới? Anh nói văn chương trong nước hay ngoài nước? Tôi không dám nói. Tôi bi quan. (Do you mean Vietnamese literature in Vietnam or in the exile community? Under either scenario, I am pessimistic.)
Trong tương lai, chị sẽ nghỉ viết văn trước, hay nghỉ nghề luật trước? Bao giờ và tại sao?
Sẽ nghỉ luật trước. Tôi đã về hưu bán thời gian năm 40 tuổi để viết. Sau đó tôi trở về với nghề luật một cách ngắn hạn và cuối cùng tôi duo.c bo^? nhie^.m di dạy học. Đôi khi tôi nghĩ rằng đi dạy học là một sai lầm cho vấn đề viết văn. Cách độc nhất làm tôi về hưu với chuyện viết văn đó là ngày tôi ngừng thở. Nhưng nếu tôi còn đầu thai làm người ở kiếp khác thì chắc tôi lại sáng tạo tiếp tục. (I will quit law first, definitely. I took semi-early retirement at the age of 40 in order to write. Later, I came back to the practice of law short-term and then was recruited to teach law full time. At times I thought law teaching was a mistake sofar as my literary life was concerned, because law teaching has not nourished my creative writing. The only way for me to retire from writing is probably death. And if there is life after death, in reincarnation, I probably will continue writing.)
Chị có bao giờ về Việt Nam chưa? Chị có bao giờ nghĩ về cái gọi là: Quê cha đất tổ? Tôi có về Việt Nam. Với tư cách một luật sư đại diện cho thân chủ là các công ty Mỹ và cũng vô tình mà đi du ngoạn một chút. Bạn tôi nói: take the girl out of Vietnam, but you can’t take Vietnam out of the girl (Đem cô gái ra khỏi Việt Nam, chứ làm sao đem được Việt Nam ra khỏi cô gái!). Và như thế thì về hay không về tôi vẫn mang mảnh đất trong tim như một nỗi bùi ngùi muôn thuở.Câu hỏi đâu là quê cha đất tổ càng làm tôi ngậm ngùi hơn. Quê cha tôi ở làng Phu.ng Thượng (thường gọi là làng Bún), huyện Phúc Thọ, tỉ?nh Sơn Tây. (Tôi viết truyện ngắn “Bóng Ma Hà Tây” là để tưởng niệm quê cha). Quê mẹ tôi ở làng Ngọc Anh, Huế (Thừa Thiên.) (Tôi viết tiểu thuyết Sông Hương để tưởng niệm quê mẹ). Con đường tôi đi là con đường thiên lý. Tôi muốn đi vào lòng nhân loại rộng lớn, với mảnh đất trong tim, không nhất thiết phải đặc chân lên mảnh đất ấy mới tìm thấy nguồn cội và tình yêu bất tử?. (I did return to Vietnam as a lawyer representing American businesses and as an accidental tourist. My friend says the cliché: take the girl out of Vietnam but you can’t take Vietnam out of the girl. So it matters not whether I return to Vietnam. I bear the homeland in my heart as a perpetual sense of nostalgia. So your question as to where home is for me just makes me poignant. My father’s homeland is the village Phuong Thuong, the province of Ha Tay, west of Hanoi (I wrote an award-winning short story called the Ghost of Ha Tay in dedication for the fatherland). My mother’s homeland is the village Ngoc Anh, in the outskirts of Hue (I wrote the novel River Huong in the image of the motherland). The path I travel is an unending journey. I want to travel the universal heart of humankind, carrying the homeland in my own heart. I don’t necessarily have to live on the land of Viet Nam to embrace my homeland.)
Cuối cùng, một suy nghĩ như là châm ngôn sống của chị; cũng như về việc trả lời bài phỏng vấn này?
Đừng bao giờ từ bỏ con đường thiên lý. Con đường chỉ đẹp khi nó là con đường thiên lý. Tôi nhớ câu, triết lý là một cố gắng “tụ tĩnh” của một người đi. Người cầm viết chính là kẻ lữ hành minh mẫn. Về bài phỏng vấn của anh: tôi nói chuyện với anh dù chúng ta cách nhau một cái biển và chưa bao giờ gặp mặt; vì anh còn trẻ, anh làm thơ; và vì tôi và anh sinh ra cùng một chỗ: Quảng Nam. Chúng ta cùng quê quán. Năm anh sinh ra đời ở Quảng Nam thì tôi tốt nghiệp đại học ở Mỹ. Hơn nữa, tên anh là "Đợi", như "Đợi chờ". Cả hai chúng ta vẫn đang chờ đợi? (My motto: never give up the unending journey. What makes the journey meaningful and beautiful is the fact that it is forever unfinished. A writer is a traveler. I remember a saying in French: Philosophier c’est etre en route. A writer is that philosopher. What do I think about the interview? I did it because you are young, you make poems, and you and I were born in the same place: Quang Nam. We share the same birthplace. I graduated from college the year you were born. Further, your name is “Doi.” It means “Waiting.” Can I say we are both still waiting?)
Trân trọng xin lỗi chị vì sự phỏng vấn đường đột này. Chúc chị cùng gia đình sức khoẻ, bình an.
Cảm ơn anh và chúc lành cho anh. (My thanks and best wishes to you. May All Your Wishes Come True.) Nhu Nguyen.
Bài phỏng vấn và cuộc nói chuyện này do Lý Đợi thực hiện qua email, kéo dài qua nhiều buổi, bắt đầu từ ngày 28-9-2005 đến ngày 20-2-2008. Lý Đợi sinh năm 1978 tại Quảng Nam, Việt Nam, nhà thơ, thành viên của nhóm Mở Miệng - gồm Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy và Nguyễn Quán, sống và làm việc tại Sài Gòn. Bài phỏng vấn này đã được sự chấp thuận của Nhà xuất bản Ravensyard, nơi xuất bản tác phẩm Daughters of The River Huong (Con gái của sông Hương). Bài phỏng vấn này do Lý Đợi thực hiện trong tư cách cá nhân, không tuỳ thuộc vào cơ quan hay hệ thống truyền thông nào. Nơi in là tạp chí talawas, và Dan Duffy’s Vietnam Literature Project. Muốn trích dịch hay đang tải phải có sự đồng ý bằng văn bản của người phỏng vấn, người được phỏng vấn, và Nhà xuất bản Ravensyard. Thi sĩ Lý Đợi đã đồng ý với các điều kiện này. Cuộc phỏng vấn vô vụ lợi, và không có thù lao. Notes (Interview of Duong Nhu Nguyen (Uyen Nicole Duong) requested by Ly Doi, a young poet, a member of the Mo Mieng [“Open Mouth”] group, which includes Ly Doi, Bui Chat, Khuc Duy, and Nguyen Quan. Ly Doi was born in Quang Nam, Vietnam, 1978). He lives and works as a free-lanced writer in Saigon. This interview has been arranged by Ravensyard ltd, publisher of Daughters of The River Huong. This interview is conducted by the poet Ly Doi in his individual capacity for exclusive publication on Ravensyard’s website. Talawas magazine, and the Dan Duffy’s Vietnam Literature Project. Any use or republication of this interview in any form or manner, on any other forum, will require the prior written approval of the interviewee, her publisher and her interviewer. The poet Ly Doi has given written consent to this exclusivity. There is no royalty earned or paid.) © 2008 talawas
No comments:
Post a Comment